NGUYỆT-QUANG TỔ-MẪU MINH CƠ
          Chiếu-Thanh-Quang ngày 12-8-1949 (Kỷ-Sửu)

THI :
NGÔ-MINH Thái-Cực Lý siêu hình,
CHIẾU diệu Đạo-Trung, Hạo-Khí linh,
Đồ nội khả tầm, Thiên-cổ sử,
Phô trương Huyền-Pháp, Vĩnh môn sinh.

Đại-Tiên chào chư hiền lưỡng phái, cùng các trò tử đệ nam nữ. Đại-Tiên hỉ! hỉ! Chư hiền lưỡng phái khá tọa thân nghe Đại-Tiên dạy đây:.................

Thôi! Khá tiếp giá, nam nữ kỉnh thành đoan trang, Đại-Tiên ban ơn lành, Đại-Tiên thăng...
(Tiếp Điển:)

THI :
NGỌC rạng nhờ Tu bởi Định-Thoàn,
THỐ-Tâm, ô-tánh, đắc Thiên-Can,
TIÊN-Thiên trưởng đợi, trường Tâm-Định,
NƯƠNG gậy Bồ-Đề, đắc Chiếu-Quang.

NGỌC-THỐ TIÊN-NƯƠNG chào các vị lưỡng phái. Vậy khá tiếp giá.

(Tiếp Điển:)
NGUYỆT-QUANG TỔ-MẪU chào các con lưỡng phái! Vậy khá Tịnh-Tâm nghe Tổ-Mẫu dạy đây:

BÀI :
Nguyệt vừa rạng, Tam-Âm ánh sáng,
Mây vén mờ, Nguyệt bán Trung-Thu,
Dám xưng tuổi hạc tuyệt mù,
Cõi đời đặng sống, muôn Thu dẫy đầy.
Ta tột sáng cũng Thầy bố hóa,
Nhờ Ngũ-Hành vận hóa công phu,
Khí-Linh, Ngũ-Khí khinh phù,
Vô trần, vô cấu, ôn nhu hóa ngời.
Phận sự phải chiều mơi chuyển vận,
Công phu lo hướng dẫn: Vận, Tinh,
Cùng là: Phong, Võ, Lôi, Đình,
Tuyết, Mù, Vụ, Tán, công trình nào than.
Vì có Trời, Ta an trường cửu,
Nhờ có Đất, Ta chủ chở che,
Rộng lòng nào có khắc khe,
Miễn sao Ta trọn, chở che muôn đời.
Ta hỏi thử, thử chơi phái nữ,
Cùng phái nam, đôi chữ Nguyệt-Quang,
Tại sao: chiếu diệu huy hoàng,
Chế bớt chất nóng, phản hoàn diệu êm?
Giúp nhơn vật ngày đêm tấn triển,
Độ nhơn sanh đặng hiển thông thường,
Tùy theo mùa tuyết ôn lương,
Cứu nhơn tế chúng, dậm trường huân chung.
Nhờ nơi đó, Thiên-Quân đoái tưởng,
Lấy đức ân phong thưởng cho Ta,
Nguyệt-Quang, Thái-Âm chánh là,
Trung-Thu bán nguyệt, Đạo gia diệu huyền.
Ta thì vậy, chư hiền sao vậy?
Ta trọn đền, đâu cật là tài,
Các con non nớt hậu lai,
Sao không suy nghiệm, nỡ hoài lòng Ta!
Muốn trọn Đạo, lân la học hỏi,
Ta mới vui, điều giỏi chỉ bày,
Nương theo ánh sáng mới hay,
Trần gian bất nhiễm, hưởng hoài muôn năm.
Đừng có tưởng mà lầm chỗ khổ,
Nơi con soi là chỗ rọ tà,
Chi bằng mượn lấy sáng Ta,
Soi trong Tâm-Nội, phải tà hay Tiên?
Tiên sao lại tréo xiên qua xéo,
Tiên nỡ nào gài tréo nhơn sanh,
Tiên sao lập Đạo bất thành,
Tiên bày những việc lộn quanh lạ kỳ.
Các con ôi! rán quỳ nghe dạy,
Định Tinh-Thần, vạn tải lưu tồn,
Miễn ai, ai đó lấp chôn,
Tấn hành Đại-Đạo, Thanh-Môn quang lòa.
Việc soi sáng, Trời Cha đã định,
Cuộc lòa minh, Mẫu lịnh đã truyền,
Các con vững chí chống thuyền,
Vớt người tâm Đạo qua miền cao-nguyên.
Thì muôn thưở, tuổi tên còn đó,
Mới tròn Xuân, đặng rõ Cha Già,
Con ôi! Soi thử Tâm đà,
Có Lão giúp Điển, ắt là thành công.
Soi Tâm con, nơi lòng Tu-Tịnh,
Soi đức hiền, thừa lịnh Cao-Tiên,
Soi về tư hướng Trung-Nguyên,
Soi chung đồng đạo, cảnh Tiên thăng về.
Rõ Tâm Đạo, lòng xuê cảnh Đạo,
Rõ tâm trần, ham thạo bua quan,
Gạt người đến chốn hố hang,
Thân thì nương Đạo, hồn mang quan trường.
Dẹp Ngũ-Đức, Tam-Cương nhứt tứ,
Che Bát-Cung, dụng chữ man tâm,
Lắm khi dẫn dắt lạc lầm,
Cho người bỏ Đạo, tủi thầm ô danh.
Soi Tâm Sĩ, làm anh chẳng vẹn,
Lời nói ra, chẳng thẹn với lời,
Rằng Tâm kỉnh Phật, thờ Trời,
Nhưng lòng soi rõ, những lời chẳng y.
Ta soi thấy, Khảm Ly tu giả,
Lòng gạt người, lả-chả Đạo lìa,
Lòng ham khuynh Đạo vội chia,
Đạo quan luống những trau-tria chẳng lìa.
Vào cửa Đạo ham tia ánh sáng,
Tâm cung thành rất đáng hiền nhu,
Ra Đàn: níu lọng, che dù,
Kệ Kinh nhứt cú, lu bù chẳng thông.
Nguyệt soi thấu, tấm lòng khách Đạo,
Mượn Thiên-Cơ mà tạo nghiệp đời,
Tu thì Chánh-Đạo, Đạo Trời,
Nhưng lòng lại tưởng, lập đời do tha.
Thấy hành động thiết tha dân chúng,
Như gà chuồng, lúng túng đường ra,
Thẹn thay: Quân-Tử tâm tà!
Bôn chôn xu hướng, Đạo nhà khuynh nguy.
Soi rõ lắm kẻ thì quan, tướng,
Soi tận tường mường tượng Tiên Chơn,
Đời Đạo sanh chúng sụp chơn,
Quan cao, Đạo giả, lòng nhơn không còn!
Soi rõ chỗ các con sẽ thấy,
Chi cho bằng cày cấy Tâm-Điền,
Tịnh-Tâm, Mộc-Dục, Đại-Thiền,
Tứ thời bốn buổi là yên Tâm thành.
Được vầy phản điển Nguyệt thanh,
Vui cùng Mẫu tử, tinh-anh sáng hừng.

THI :
Sáng hừng soi khắp cả Năm-Châu,
Trong trắng Chiếu-Quang, Phục-Thỉ đầu,
Điện-Ngọc rước đưa, ngày sáu khắc,
Trung-Thu bán nguyệt, Đạo vòng câu.

                                                         Thăng...
(Nơi Nguyệt-Thanh-Cung, đêm 15 tháng 8 năm Kỷ-Sửu)
CHUNG KẾT

                                                                  Trở Lại Mục Lục